Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

SPT bắt đầu khai thác tuyến cáp quang biển AAG: Bước ngoặt mới
  E-mail        Bản để in        Cỡ chữ       Chia sẻ:         
▪  HẢI VY
29/01/2010 05:59 (GMT+7)

Sơ đồ đường cáp quang AAG - Ảnh: AAG Consorrtium.
Với sự kiện này, SPT đã có thể cung cấp ra thị trường nhiều dịch vụ viễn thông chất lượng cao
Ngày 15/1 vừa qua, Trung tâm Truyền dẫn đường dài trong nước và  quốc tế - Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT) đã chính thức đưa tuyến cáp quang biển AAG (Asia America Gateway) vào khai thác.

Với sự kiện này, SPT đã có thể cung cấp ra thị trường nhiều dịch vụ viễn thông là IRU (Indefeasible Right of Use), MIU (Minimum Investment Unit), Thuê kênh riêng quốc tế  (IPLC), Thuê kênh riêng liên tỉnh, Thuê kênh riêng Internet, Mạng riêng ảo (VPN)... với chất lượng cao và các gói cước hấp dẫn.

AAG là hệ thống cáp quang biển có chiều dài 20.000 km, dung lượng thiết kế  đạt đến 2 Terabit/giây, kết nối trực tiếp khu vực  Đông Nam Á với Mỹ. AAG đi qua Malaysia, Singapore, Thái Land, Việt Nam (điểm cập bờ tại thành phố Vũng Tàu), Brunei, Hồng Kông, Philippines và Mỹ (Guam, Hawaii và California).

AAG là tuyến cáp quang đầu tiên và duy nhất đến thời điểm hiện tại kết nối trực tiếp lưu lượng từ khu vực Đông Nam Á đến Mỹ. Với dung lượng băng thông quốc tế lớn, việc khai thác AAG cũng đã nâng tổng dung lượng đường truyền quốc tế của Việt Nam lên gấp 6 lần so với năm 2009, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu băng thông phát triển bùng nổ mạnh mẽ tại Việt Nam hiện nay.

Tuyến cáp quang biển AAG dự  kiến sẽ đem lại những lợi ích rất cụ thể đối với các thành viên tham gia. AAG vào hoạt động sẽ đáp ứng được nhu cầu sử dụng băng thông rộng ngày càng tăng của Việt Nam, đặc biệt là các dịch vụ ứng dụng băng rộng như video, truyền dữ liệu và các dịch vụ đa phương tiện khác. Dung lượng của tuyến cáp có thể hỗ trợ cùng lúc 130.000 đường truyền tín hiệu truyền hình độ phân giải cao (HDTV).

Từ trước tới nay, các tuyến cáp quang biển được xây dựng kết nối Đông Nam Á sang Mỹ đều phải đi qua các quốc gia khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan... Trong năm 2007, tuyến đường dài mang nhiều rủi ro này đã gặp sự cố động đất tại Đài Loan khiến mạng Internet của khu vực châu Á bị trục trặc và phải mất khá nhiều thời gian mới có thể khắc phục.

Bởi vậy, AAG hiện đang đóng vai trò như một trong những tuyến cáp chính và  quan trọng nhất của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á đi quốc tế. Việc đưa vào vận hành tuyến cáp sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bị  cô lập với thế giới bên ngoài khi có sự  cố trên các tuyến cáp quang biển khác hiện tại, như SMW3, IACS.

Trước đó, vào tháng 4/2007, tại Malaysia, ba doanh nghiệp viễn thông của Việt Nam là  SPT, VNPT và Viettel và đã cùng với 15 công ty viễn thông quốc tế và khu vực tham gia ký kết thoả  thuận xây dựng và bảo dưỡng hệ thống cáp quang biển AAG, có tổng dự toán lên tới 560 triệu USD.

Đến ngày 10/11/2009, sau khi hoàn thành đo thử toàn tuyến, Hiệp hội Các thành viên hệ thống cáp quang biển quốc tế AAG đã chính thức đưa tuyến cáp vào khai thác.

Trong kế hoạch phát triển hạ tầng, nâng cao năng lực cung cấp truyền dẫn đường dài trong nước và quốc tế của mình, Trung tâm Truyền dẫn SPT đã cam kết đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, với lưu lượng băng thông quốc tế lớn, ổn định lại vừa được tăng cường bởi tuyến cáp AAG, sẽ đảm bảo chất lượng dịch vụ và chăm sóc khách hàng luôn ở mức cao nhất.

Bên cạnh đó, Trung tâm Truyền dẫn SPT cũng đã đưa trang web www.stn.com.vn của Trung tâm vào hoạt động như là một kênh thông tin chính thức nhằm cung cấp đầy đủ nhất, kịp thời những thông tin đáp ứng theo yêu cầu của khách hàng.

Với lợi thế cơ sở  mạng lưới hạ tầng vững chắc sẵn có cùng nhiều gói dịch vụ đa dạng, phù hợp, Trung tâm Truyền dẫn SPT đã chia sẻ lợi ích kinh tế này với khách hàng bằng những chính sách ưu đãi đặc biệt. Điều này đã mang lại nhiều cơ hội cho khách hàng được sử dụng những dịch vụ có chất lượng cao nhất cùng giá cả hợp lý nhất.

Thứ Tư, 10 tháng 11, 2010

DIỄN GIẢI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM VIÊM GAN SIÊU VI B


DIỄN GIẢI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM VIÊM GAN SIÊU VI B

HBV : virus viêm gan B
HBsAg : kháng nguyên bề mặt viêm gan B
HBeAg : kháng nguyên e viêm gan B
Anti-HBc : kháng thể của kháng nguyên nhân viêm gan B
Anti-HBe : kháng thể của kháng nguyên e viêm gan B
Anti-HBs : kháng thể của kháng nguyên bề mặt viêm gan B


• Kháng nguyên : là yếu tố xâm nhập gây bệnh ( nhân, vỏ, lông …của virus gây bệnh ).
• Kháng thể : là yếu tố kháng bệnh mà cơ thể sinh ra nhằm chống lại tác nhân gây bệnh
• Âm tính : không có = O
• Dương tính : Có = X


Kết quả xét nghiệm





* Trường hợp 1 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : O
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Cho thấy khả năng dễ nhiễm viêm gan B. Bệnh nhân chưa từng nhiễm viêm gan B




* Trường hợp 2 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : O
Anti-HBe : O
Anti-HBs : X
---> Có thể cho thấy tiền sử nhiễm với việc biến mất chọn lọc Anti-HBc và Anti-HBe hoặc do chủng ngừa, chủng ngừa thụ động tạm thời bằng HBIG hoặc chủng ngừa chủ động lâu dài bằng vaccin viêm gan B.Không lây nhiễm.
* Trường hợp 3 :
HBsAg : X
HBeAg : O
Anti-HBc : O
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Giai đoạn sau của thời kỳ ủ bệnh hoặc giai đoạn rất sớm của nhiễm cấp. Nguy cơ lây nhiễm.


* Trường hợp 4 :
HBsAg : X
HBeAg : X
Anti-HBc : O
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Giai đoạn đầu của nhiễm cấp. Nguy cơ lây nhiễm.


* Trường hợp 5 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : O
Anti-HBs : X
---> Trường hợp này cho thấy tiền sử nhiễm HBV nhưng Anti-HBe không tồn tại dai dẳng hay không thể phát hiện. Miễn dịch đối với các trường hợp nhiễm thứ phát. Không lây nhiễm.


*Trường hợp 6 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : X
Anti-HBs : X
---> Cho thấy tiền sử nhiễm HBV. Miễn dịch đối với các trường hợp nhiễm thứ phát. Không lây nhiễm.


Trường hợp 7
:
HBsAg : X
HBeAg : X
Anti-HBc : X
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Nhiễm cấp hoặc mạn. Nguy cơ lây nhiễm cao.


* Trường hợp 8 :
HBsAg : X
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Nhiễm cấp hoặc mạn ; Thời kỳ sau khi HBeAg biến mất nhưng chưa phát hiện được Anti-HBe. Chỉ định theo dõi huyết thanh học. Nguy cơ lây nhiễm.


* Trường hợp 9 :
HBsAg : X
HBeAg : X
Anti-HBc : X
Anti-HBe : X
Anti-HBs : O
---> Giai đoạn từ giữa đến cuối của nhiễm cấp hoặc tình trạng người mang mầm bệnh mạn tính. Thời kỳ chuyển đổi huyết thanh từ HBeAg sang Anti-HBe. Chỉ định theo dõi huyết thanh học. Nguy cơ lây nhiễm.


* Trường hợp 10 :
HBsAg : X
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : X
Anti-HBs : O
---> Giai đoạn từ giữa đến cuối của nhiễm cấp hoặc tình trạng người mang mầm bệnh mạn tính. Chỉ định theo dõi huyết thanh học. Nguy cơ lây nhiễm.


* Trường hợp 11 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Trường hợp này thường biểu hiện tình trạng nhiễmtrước đây với việc mất chọn lọc Anti-HBs. Tình trạng này cũng có thể biểu hiện cho giai đoạn của sổ của một đợt nhiễm cấp; nhiễm mạn tính với HBsAg thấp hơn giới hạn có thể phát hiện; hoặc kết quà thử nghiệm có sai sót. Nguy cơ lây nhiễm thấp.


* Trường hợp 12 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : X
Anti-HBs : O
---> Trường hợp này có thể biểu hiện cho tình trạng nhiễm mà chưa thể phát hiện Anti-HBs; tình trạng nhiễm trước đây không tồn tại dai dẳng Anti-HBS; hoặc hiếm hơn tình trạng nhiễm hiện tại với HBsAg thấp hơn giới hạn có thể phát hiện. Nguy cơ lây nhiễm thấp.


* Trường hợp 13 :
HBsAg : O
HBeAg : X
Anti-HBc : O
Anti-HBe : O
Anti-HBs : O
---> Một trường hợp hiếm gặp phần lớn là do kết quả thử nghiệm sai sót. Chỉ định làm lại thử nghiệm.



* Trường hợp 14 :
HBsAg : O
HBeAg : O
Anti-HBc : O
Anti-HBe : X
Anti-HBs : O
---> Có thể là sai sót của kết quả thử nghiệm. Nếu Anti-HBe dương tính thật sự, rồi tới Anti-HBc và có thể Anti-HBs cũng dương tính. Chỉ địng làm lại thử nghiệm.



* Trường hợp 15 :
HBsAg : X
HBeAg : O
Anti-HBc : X
Anti-HBe : X
Anti-HBs : X
---> Một tình trạng đôi khi gặp phải, cho thấy việc lưu hành các phức hợp miễn dịch của HBsAg với tỉ lệ như nhau nên cả hai có thể được phát hiện; HBsAg và Anti-HBs với các kiểu phụ khác
nhau; hoặc kết quả thử nghiệm Anti-HBs có sai sót. Nguy cơ lây nhiễm.

Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010

Chứng đau ngực
Đau ngực là một cảm giác khó chịu ở vùng ngực xảy ra do các nguyên nhân tại thành ngực hay các phủ tạng bên trong nó gây ra. Chứng đau ngực thường gặp tại các phòng khám đa khoa và cũng là nguyên nhân khiến bệnh nhân phải tìm đến thầy thuốc do tính nguy hiểm của cơn đau ở khu vực này.

Dựa vào các tính chất và đặc điểm của đau ngực như vị trí, điều kiện xuất hiện, cường độ, thời gian, hướng lan mà chúng ta có thể dự đoán được tương đối chính xác về nguyên nhân gây ra đau ngực.
Về cấu tạo giải phẫu của ngực bao gồm lồng ngực (có da, cơ, xương và thần kinh) và các tạng trong nó (tim, phổi và các cuống mạch). Do vậy, đại đa số đau ngực đều có nguồn gốc từ những bộ phận này.
Các loại đau ngực có nguồn gốc từ thành ngực:
1. Từ các tổ chức phần mềm:
  • Viêm da, cơ: ngoài các triệu chứng sưng đau tại chỗ, bệnh nhân còn có sốt cao, thể trạng nhiễm trùng nhiễm độc.
  • Do chấn thương đụng dập cơ: có dấu hiệu tại chỗ chủ yếu như thâm tím  hoặc sây sát.
  • Zôna ngực: Da ngực vùng tổn thương nóng, đỏ, rát, trên bề mặt có nhiều mụn phỏng nước. Mụn Zôna thường bám dọc theo các xương sườn. Đau thường rất nhiều và tăng lên khi thở sâu hay đụng chạm vào vùng bệnh.
  • Đau ngực trong viêm tuyến vú, tắc tuyến sữa ở những người đang cho con bú, ung thư tuyến vú. Do vậy, phụ nữ ở độ tuổi trên dưới 40 phải thường xuyên kiểm tra tuyến vú của mình, nếu có u cục phải lập tức đến bác sĩ để có chẩn đoán và xử trí kịp thời.
2. Từ các dây thần kinh liên sườn:
Viêm dây thần kinh liên sườn: đau vừa phải, đau tăng lên khi hít vào sâu, đặc biệt khi ấn dọc theo các kẽ liên sườn. Da tại vùng đau gần như không có biến đổi gì đặc biệt.
3. Từ xương ức, sườn, khớp sụn sườn, cột sống ngực:
  • Các tổn thương do viêm hay thoái hóa: viêm khớp ức sườn, thoái hóa cột sống ngực, đặc biệt là lao cột sống, ung thư đốt sống. Trong trường hợp do lao cột sống, đau không nhiều nhưng dai dẳng, đau thành khoanh quanh lồng ngực vùng tổn thương. Lao cột sống có thể nguyên phát, nhưng cũng có thể hậu phát sau lao phổi, ngoài triệu chứng đau tại chỗ như đã nêu, bệnh nhân thường có sốt về chiều, kém ăn, người gầy sút, có thể ho ra máu.
  • Do chấn thương: bệnh nhân có biểu hiện đau tại chỗ vết xây xát, thâm tím, đặc biệt khi nắn vào vùng đau sẽ có dấu hiệu điểm đau chói. Do vậy để tránh khỏi bỏ sót gãy xương kín đáo, người sau ngã hoặc chấn thương vùng ngực phải được chụp X- quang lồng ngực.
Các loại đau có nguồn gốc từ phổi:
1. Viêm màng phổi khô hoặc có tràn dịch màng phổi:
Biểu hiện ban đầu thường chỉ đau khu trú ở một vùng nhỏ của ngực, đau tăng lên khi hít vào. Khi xuất hiện tràn dịch màng phổi lượng dịch ít thường bệnh nhân đau khi nằm nghiêng về phía tràn dịch và nếu lượng dịch nhiều sẽ có biểu hiện ngược lại.
2. Ung thư màng phổi:
Cần phải chụp X- quang, chụp cắt lớp vi tính phổi.
3. Tràn khí màng phổi:
Đau ngực đột ngột, dữ dội như dao đâm, khó thở thường xảy ra đột ngột sau một gắng sức ở người trẻ tuổi không có tiền sử bệnh. Tuy nhiên hay gặp trên những người có tiền sử hen phế quản, giãn phế nang, đau ngực và khó thở có thể đến đột ngột hoặc từ từ. Tiên lượng thường xấu hơn.
4. Tràn máu màng phổi sau chấn thương.
5. Dày dính màng phổi.
Các nguyên nhân có nguồn gốc từ phổi:
  • Viêm phổi: Bệnh nhân sốt cao, đau ngực bên tổn thương, khó thở, ho khạc đờm màu rỉ sắt. Nếu không được điều trị có thể dẫn đến biến chứng áp xe phổi.
  • Viêm phế quản tắc nghẽn mạn tính: Đau ngực ở đây thường do viêm nhiễm, đặc biệt hậu phát do tăng áp lực động mạch phổi.
  • Ung thư phế quản: Bệnh hay xảy ra cho những người lớn tuổi có tiền sử nghiện thuốc lá, thuốc lào, đột nhiên thấy đau ngực kèm theo ho ra máu và người gầy sút, biếng ăn, mệt mỏi. Có trường hợp đau ngực lan lên vai, lên cánh tay, kèm theo móng tay khum như mặt kính đồng hồ hoặc có dạng như dùi trống.
Đau ngực có nguồn gốc từ các cuống mạch của trung thất:
  • Bệnh tăng áp lực động mạch phổi.
  • Bệnh phình tách động mạch chủ: Đau ngực dữ dội, đau trong sâu, đau sau lưng và rất dễ nhầm với nhồi máu cơ tim.
  • Viêm hay u trung thất.
Đau ngực do nguyên nhân tim:
1. Viêm màng ngoài tim:
  • Viêm màng ngoài tim khô: Đau ngực vùng trước tim và tăng lên khi thở sâu, đặc biệt khi cúi người về phía trước.
  • Tràn dịch màng ngoài tim, ung thư màng tim.
2. Đau thắt ngực trong suy mạch vành mạn hoặc cấp:
Tùy từng loại mà cơn đau ngực ở đây có những nét đặc trưng khác nhau tuy rằng chúng có một đặc điểm chung là đau ở vùng trước tim, đau sau xương ức. Nhưng mức độ đau có thể không giống nhau, từ mức chỉ có cảm giác nặng ngực, đến nghẹt thở, vã mồ hôi kèm theo hốt hoảng, sợ hãi. Sự khác nhau quan trọng giữa các cơn thắt ngực là hoàn cảnh xuất hiện cơn đau, ví dụ:
Trong cơn đau thắt ngực gắng sức (hay còn gọi là cơn đau thắt ngực ổn định): đau thường xuất hiện sau các gắng về thể lực (như đi bộ nhanh, chạy lên cầu thang…) hoặc tâm lý (quá buồn, vui hay lo lắng…).
Trong cơn đau thắt ngực tự phát (Cơn Prinzmetal): đau xảy ra thường vào ban đêm hoặc vào các giờ gần sáng và không liên quan gì đến gắng sức. Để chẩn đoán được cơn này phải thực hiện ở cơ sở chuyên khoa.
Trong cơn đau thắt ngực không ổn định: đau thường xuất hiện ngay chỉ với gắng sức rất nhẹ, cơn hay xảy ra vào ban đêm, thời gian cơn thường kéo dài > 30 phút, do tổn thương mạch vành trong trường hợp này nặng hơn trong cơn đau thắt ngực gắng sức.
Trong nhồi máu cơ tim cấp: đau ngực dữ dội, đau như dao đâm hay đau như quả tim bị kẹp, bị bóp,… đau vùng trước tim lan lên cằm, hàm dưới, lan lên vai trái, lan dọc theo cánh tay đến tận các ngón tay. Khác với các cơn đau trong đau thắt ngực thời gian đau chỉ vài phút (từ 2 – 3 phút), trong nhồi máu cơ tim thời gian đau thường kéo dài hàng giờ có khi hàng ngày hoặc hơn. Kèm theo đau bệnh nhân có cảm giác hốt hoảng, sợ chết.
Các nguyên nhân gây đau ngực có nguồn gốc ngoài lồng ngực:
  • Đau ngực do viêm loét thực quản: Đau sau xương ức, có cảm giác nóng rát như xát chanh. Bệnh nhân có thể có kèm theo hay ợ hơi, ợ chua.
  • Đau ngực do viêm loét dạ dày hành tá tràng: Đau lan từ vùng thượng vị, lên ngực. Khi kiểm tra kỹ sẽ thấy vùng thượng vị là vùng đau trội hơn cả. Ở những bệnh nhân này thường có tiền sử đau nhiều lần, thời gian đau hàng giờ, có liên quan chặt chẽ với bữa ăn và thời tiết (mùa đông).
Những nghi thức khi rước dâu


Thắp hương giường thờ: Họ nhà gái mời nhà trai vào nhà. Nhà trai cho đặt đồ lễ lên giường thờ (ngày xưa người ta thờ trên giường chớ không phải trên bàn hay trên tủ như bây giờ). Và ngày nay khi đàng trai được mời vào nhà, các chú rể phụ hay những người bưng phụ đồ lễ vật đứng dàn hàng ngang trước mặt các cô dâu phụ hay các thiếu nữ bên nhà gái, cũng đứng hàng ngang đối diện để trao những mâm hay quả tráp lễ vật.
Các cô này đem lễ vật vào đặt trên bàn có thứ tự trước bàn thờ gia tiên. Lúc này nhà gái kiểm điểm lại đồ thách cưới, tuy một phần đã được nhà trai đưa qua từ những hôm trước để tiện nhà gái làm cỗ đãi cho họ hàng (ngày nay lễ vật không đưa sang nhà gái trước nhưng nhà trai khi trình lễ vật, phải nói mấy lời cùng nhà gái lễ vật gồm những thứ gì).
Chính người chủ hôn nhà trai giở nắp quả tráp hay khăn đỏ phủ lễ vật ngay sau lời mở đầu buổi lễ xin phép, nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cùng lễ gia tiên.
Không phải ai cũng có thể thắp nén hương trong trong ngày lễ cưới được. Hương phải do bố, anh trai hoặc em trai cô dâu thắp. Nếu là anh trai hoặc em trai cô dâu thắp hương, nhà trai lại phải tặng một món tiền gọi là tiền thắp hương.
Tất cả nhưng sự khó khăn nhà trai phải vượt qua từ lúc chăng dây cho đến khi hương được thắp trên giường thờ, tục lệ đặt ra để chứng tỏ nhà trai không nề hà trong sự khó khăn để đón dâu, và cũng chứng tỏ sự thiết tha yêu thương vợ của chú rể.
Lễ gia tiên và lễ mừng: Chú rể vào lễ bàn thờ gia tiên nhà vợ bốn lễ rưỡi, sau đó cô dâu cũng lễ theo. Ngày nay, cô dâu và chú rể cùng làm lễ một lược, theo thể thức chú rể “bái gối” và cô dâu ngồi vẹt, tuy vậy mỗi lần chú rể bái, cô dâu chờ động tác cho nhịp nhàng. Lễ gia tiên xong, cô dâu và chú rể phải ra lễ mừng bố mẹ vợ. Ngày nay cô dâu và chú rể lạy bố mẹ ngay liền trước bàn thờ gia tiên, thường được cha mẹ cho hỉ xả, nghĩa là cho miễn thủ tục này để tỏ lòng yêu thương, rộng lượng. Chàng rể lễ mừng bố mẹ vợ để tạ công ơn nuôi dưỡng vợ mình, còn cô dâu lễ mừng cũng có ý nghĩa tạ ơn cha mẹ tác thành lương duyên giai ngẫu cho mình. Khi chàng rể mừng lễ, bố mẹ vợ thường cho tiền hay vàng bạc. Các người phù rể sẽ nhận hộ chú rể. Có nhiều người có tính khoe khoang thường nhân dịp này cho chú rể nhà cửa, ruộng nương bằng cách trao cho văn tự hay địa đồ.
Ngày nay, sự việc có thay đổi. Trong lễ này bố mẹ vợ không cho tiền. Nếu cho tiền thì cho cô dâu ngay đêm trước ngày vu quy. Tại buổi lễ có thể người cha vợ quyết định cho lại vợ chồng một số tiền đồng hay là tiền chợ mà đàng trai trao cho nhà gái khi trình lễ vật. Bà mẹ cũng nhân dịp này trao cho con gái mình một vài món nữ trang, ngoài tính cách khoe khoang còn ngụ ý rằng “đây là của riêng con gái do bà mẹ tằn tiện để dành cho, chỉ được sử dụng khi nguy cấp để bảo hộ thân”.
Lễ mừng cha mẹ xong, chàng rể được người trong họ nhà vợ dẫn đi lễ mấy nhà thờ chính của họ nhà vợ, có mấy chàng phù rể đi theo. Cũng có nơi, chàng rể phải đi lễ nhà thờ trước rồi lúc trở về mới làm lễ mừng bố mẹ vợ. Sau khi chàng rể làm lễ đủ mọi nghi thức xong rồi, nhà gái mới mời nhà trai uống nước ăn trầu và hai họ chúc tụng cô dâu chú rể. Thường nhà gái làm cỗ mời nhà trai. Trong bữa cỗ này, chú rể vì giữ lễ hoặc vì sung sướng quá nên ăn uống rất e dè từ tốn, có khi không dám ăn vì sợ họ nhà vợ chê cười. Ngày nay, ở miền Nam, theo khuôn phép gia đình nề nếp, chú rể và cô dâu không ngồi vào bàn trong các tiệc đãi mà phải đưa nhau đi từng bàn mời khách đôi bên mà cũng là dịp để nhận biết rõ những người thân thuộc. Họ nhà trai ngồi lại họ nhà gái cho đến lúc được giờ tốt, giờ hoàng đạo, cụ già chủ hôn xin với nhà gái cho rước dâu. Cô dâu lúc này đã y phục chỉnh tề, trang điểm với mọi nữ trang của mình cùng với những đồ dẫn cưới trước, đựng trong chiếc rương phủ nhiễu điều.
Họ nhà gái có một số người đi theo cô dâu, trong đó có các cô phú dâu. Các cô phù dâu đã được tuyển lựa trong số các thiếu nữ chưa lập gia đình cũng như các phù rể đều là các chàng trai chưa vợ. Đây cũng có ý nghĩa là dịp người ta “giới thiệu” những trai gái có thể tiếp nối kết duyên, vì vậy cũng thường có các cuộc hôn phối tiếp sau đó của những trai gái này.